Đôi lứa xứng đôi – Nam Cao

Sách được đặt tại: Thư viện trung học
Tác giả: Nam Cao
Nhà XB: Văn học
Năm XB: 2022.
“Chí Phèo” được nhà văn Nam Cao đặt tên trong bản thảo là “Cái lò gạch cũ”, nhưng có lẽ nhằm gây chú ý cho công chúng đương thời, nhà văn Lê văn Trương khi viết lời tựa cho tập truyện đã đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”. Về sau, khi in lại truyện này trong tuyển tập “Luống cày” (tập truyện của 4 tác giả: Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân) tác giả Nam Cao đổi tên truyện của mình thành “Chí Phèo”.
Chí là một đứa trẻ bị bỏ rơi ngay từ lúc lọt lòng, may mắn được người ta nhặt về nuôi rồi trở thành canh điền nhà kỳ mục Bá Kiến ở làng Vũ Đại. Vì ghen mà Bá Kiến đẩy Chí vào ngục giam. Bảy, tám năm sau Chí trở về làng gây sự với kẻ đã khiến mình đi tù, nhưng lại bị viên kỳ mục này lợi dụng, Chí trở thành tay chân của Bá Kiến, trở thành kẻ chuyên nghề đâm thuê chém mướn. Suốt vài chục năm liền Chí chìm trong những cơn say, làm việc ác trong lúc say, đến nổi không biết rằng mình đã trở thành một con quỷ dữ trong làng.
Một ngày kia, sau một cuộc rượu say sưa, trên đường về nhà, giữa vườn chuối trên bãi sông, Chí bỗng thấy một người đàn bà. Chí gặp Thị Nở, sau buổi đêm ấy, sau cơn sốt ngày kế tiếp, sau bát cháo hành nghi ngút khói, cuộc đời Chí lần đầu tiên tỉnh táo sau bao nhiêu năm say…
Câu chuyện xây dựng thành công sự xung đột vô cùng quyết liệt của hai nhóm người thuộc hai tầng lớp trong xã hội thực dân nửa phong kiến: nhóm cường hào, vai vế bề trên gồm những Bá Kiến, Lý Cường, Đội Tảo… và nhóm cùng đinh lưu manh hóa gồm những Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ… Nhóm cường hào cai trị, bòn rút đám đông dân quê, lại cũng cạnh tranh, sát phạt nhau… Chính vì vậy, nhóm cùng đinh lưu manh hóa đã được bọn cường hào sử dụng làm công cụ để trừng trị lẫn nhau và áp chế dân làng.
Truyện “Chí Phèo” khái quát một hiện tượng xã hội ở làng quê Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ vẫn luôn cưỡng lại quá trình tha hóa đó, ngay cả khi bị vùi dập nhân hình, nhân tính.
Truyện “Chí Phèo” hầu như được giới nghiên cứu và giới mộ điệu nhất trí xem là một kiệt tác, đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, đồng thời là kiệt tác đỉnh cao của văn xuôi tự sự Việt Nam những năm 1930 – 1945.
Tác giả:
Nam Cao là một nhà văn và cũng là một chiến sĩ, liệt sĩ người Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn (trước Cách mạng Tháng Tám), một nhà báo kháng chiến (sau Cách mạng), một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
Nam Cao có bút danh là Thúy Rư, Xuân Du, Nguyệt, Nhiêu Khê… Tên khai sinh: Trần Hữu Tri (có nguồn ghi là Trần Hữu Trí), sinh ngày 29 tháng 10 năm 1917, nhưng theo người em ruột của ông là Trần Hữu Đạt thì ông sinh năm 1915. Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư.
Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du, Nguyệt.
Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo.
Phát xít Nhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên tờ Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn…