Tiếng thu: Thơ – Lưu Trọng Lư

Sách được đặt tại: Thư viện trung học
Tác giả: Lưu Trọng Lư
Nhà XB: Văn học
Năm XB: 2014.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô...
Bài thơ “Tiếng thu” của nhà thơ Lưu Trọng Lư xưa nay vẫn được xem là một trong những thi phẩm viết về mùa thu nổi tiếng nhất trên thi đàn nước ta.
Qua thời gian, “Tiếng thu” đã khẳng định được những vang động và cùng với những thi phẩm khác của nhà thơ Lưu Trọng Lư, đưa ông trở thành tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, một tiếng thơ tài hoa, độc đáo.
Bài thơ Tiếng thu thực sự là một tác phẩm văn học xuất sắc mô tả về mùa thu trong kho tàng văn hóa Việt Nam. Qua những dòng thơ, chúng ta không chỉ trải qua không khí của mùa thu, nồng nàn và dịu dàng, mà còn cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm và đầy tình cảm của nhân vật trữ tình thông qua hình ảnh của người phụ nữ nhớ về người chồng đã mất. Lưu Trọng Lư đã thành công trong việc diễn đạt một cách xuất sắc về một mùa thu đậm đà cảm xúc, gửi đến độc giả những trải nghiệm tuyệt vời.
Đôi nét về tác giả
Lưu Trọng Lư là nhà văn, nhà thơ và nhà soạn kịch nổi tiếng của Việt Nam, sinh ngày 19 tháng 6 năm 1911 và mất vào ngày 10 tháng 8 năm 1991. Quê quán của ông là làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông lớn lên trong một gia đình người Quan thoại bản địa và đã trải qua thời niên thiếu tại trường tỉnh trước khi chuyển đến Hà Nội để tiếp tục học vấn.
Sau một thời gian học, Lưu Trọng Lư rời bỏ giảng đường để theo đuổi sự nghiệp văn chương, trở thành một giáo viên viết văn và làm báo để kiếm sống. Đến năm 1932, ông là một trong những người đầu tiên ủng hộ và thúc đẩy phong trào Thơ mới tại Việt Nam.
Trong giai đoạn từ 1933 đến 1934, ông sáng lập Ngân Sơn tùng thư tại Huế và năm 1941, tác phẩm thơ của ông được giới thiệu trong tập Thi Nhân do Hoài Thanh và Hoài Chân biên soạn.
Sau Cách mạng tháng Tám, Lưu Trọng Lư tích cực tham gia các hoạt động văn hóa dân tộc tại Huế. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, ông cũng đóng góp tích cực trong các hoạt động văn nghệ tuyên truyền tại Bình Trị Thiên và Liên khu IV.
Ông để lại dấu ấn sâu sắc trong văn hóa và nghệ thuật Việt Nam, trở thành một biểu tượng quan trọng của thời kỳ và là một nguồn cảm hứng cho các thế hệ sau. Sau năm 1954, ông công tác ở Bộ Sân khấu và là tổng thư ký của Hội Sân khấu Việt Nam. Năm 1957, ông trở thành hội viên Hội nhà văn Việt Nam.